Mô tả Tàu sân bay lớp Nimitz

Tàu sân bay Nimitz có tổng chiều dài 1.092 ft (333 m) và thể tích nước choán chỗ lúc chở nặng là 100,000–104,000 tấn dài (102,000–106,000 tấn). Bề ngang của tàu ở mức nước là 135 ft (41 m) và chỗ rộng nhất của sàn bay là 251 ft 10 in đến 257 ft 3 in (77.76 m đến 78.41 m) (tùy kiểu tàu). Thủy thủ đoàn có thể lên đến 3,200, không kể đến không đoàn gồm có 2,480 người.[4]

Xây dựng

Tất cả mười tàu của lớp Nimitz đều được đóng trong giai đoạn 1968-2006 tại công ty đóng tàu Newport News, Virginia, trong ụ khô lớn nhất bán cầu Tây - ụ khô số 12, dài 662m ở thời điểm hiện tại sau khi mở rộng quy mô.Kể từ USS Theodore Roosevelt, tất cả các tàu đều được đóng theo cấu trúc mô-đun hóa (USS George H.W Bush được lắp từ 161 "siêu mô-đun"). Điều này có nghĩa là các phần được hàn thẳng hàng với nhau cùng các thiết bị điện được lắp sẵn, gia tăng hiệu quả. Nhờ cầu trục mà các mô-đun được đưa vào ụ và hàn lại. riêng với phần "bow", chúng có thể nặng tới 680 tấn. Phương thức này được phát triển bởi xưởng đóng tàu Ingalls, gia tăng hiệu suất làm việc vì những phần lắp ráp không cần phải hoàn thiện bên trong thân tàu đã hoàn thành

Hệ thống đẩy

Propeller of Washington

Tất cả tàu của lớp này được trang bị bởi hai lò phản ứng hạt nhân A4W, được bố trí trongcác khoang riêng biệt. Chúng cung cấp năng lượng cho bốn cánh quạt, và có thể đạt tốc độ tối đa trên 30 hải lý một giờ (56 km/h) và công suất tối đa 260.000 bhp (190 MW).[3] Các lò phản ứng tạo ra nhiệt thông qua phản úng hạt nhân làm nóng nước lên. Nước này được thổi qua 4 turbin (sản xuất bởi General Electric) dùng chung bởi cả hai lò phản ứng. Các turbine cung cấp sức đẩy cho 4 cánh quạt bằng đồng, mỗi cái có đường kính 25 foot (7,6 m) và nặng 66.000 pound (30 t). Đằng sau các cánh quạt là hai bánh lái tàu, cao 29 foot (8,8 m) và dài 22 foot (6,7 m), mỗi bánh nặng110,000 pound (0,049895 t)[Chuyển đổi: Tùy chọn không hợp lệ].[5] Các tàu lớp Nimitz được đóng kể từ Reagan còn có bulbous bow để cải thiện tốc độ và nâng cao hiệu năng của nhiên liệu bằng cách giảm sức cản thủy lực.[6] Nhờ sử dụng năng lượng hạt nhân, những tàu này có khả năng hoạt động liên tục trong vòng 20 năm mà không cần phải nạp nhiên liệu, và dự tính sẽ phục vụ trong 50 năm.[5]

Vũ trang và bảo vệ

Nằm trong phần thêm vào, các tàu mang thêm khí để chống lại máy bay và tên lửa địch. Chúng bao gồm 3 hoặc 4 bệ phóng tên lửa RIM-7 Sea Sparrow để chống máy bay và tên lửa chống hạm, cũng như 3-4 pháo Phalanx CIWS 20mm. Ngoài ra các tàu còn được trang bị mới RIM-116 RAM. Tất cả các tàu đều phải trải qua kì kiểm tra kĩ thuật toàn diện và nạp nhiên liệu (RCOH).

Sách tham khảo